
Tiểu đoàn 1 Long An bắt sống 4 cố vấn Mỹ trong trận đánh tiêu diệt căn cứ huấn luyện biệt kích Mỹ tại Hiệp Hoà, Đức Huệ, Long An đêm 23-11-1963.
Những dòng tôi viết này như nén tâm nhang tưởng nhớ những đồng chí thân yêu của tôi ở đơn vị 3 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Long An là một tỉnh đồng ở bằng sông Cửu Long, nằm sát, như một cánh cung ôm chặt phía tây aam đô thành Sài Gòn trước 1975. Vị trí này có tầm quan trọng đặc biệt, là bàn đạp cho lực lượng ta đánh vào Sài Gòn, đồng thời cũng là nơi chịu ác liệt chưa từng có của chiến tranh, là đỉnh cao đọ sức bom đạn giữa ta và địch, là nơi nở bừng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, được kết tinh trong 8 chữ vàng mà T.Ư tặng cho quân dân Long An: “Trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”.
Tiểu đoàn 1 Long An hôm nay là đơn vị bộ binh thuộc Bộ CHQS tỉnh Long An, Quân khu 7, có bề dày thành tích sáng chói, được tuyên dương 3 lần Anh hùng LLVTND (năm 1970, 1979 và 1983), là 1 trong 4 tiểu đoàn trong toàn quân (đến thời điểm này), vinh dự được nhận phần thưởng cao quý trên. Đơn vị được thành lập năm 1960, qua 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (1960-2025), đi qua 2 cuộc chiến tranh chống Mỹ và bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp nước bạn Campuchia, làm nên 12 chữ truyền thống đỏ: “Điều đâu đi đó, chỉ đâu đánh đó, đánh đâu thắng đó” và hiện nay đang tiếp tục xây dựng đơn vị Anh hùng lần thứ tư, thời kỳ đổi mới.
Trong kháng chiến chống Mỹ, sau khi thành lập, Tiểu đoàn đã lập công xuất sắc ở trận đánh tiêu diệt căn cứ huấn luyện biệt kích Mỹ tại Hiệp Hoà (Đức Huệ - Long An) vào đêm 23-11-1963, diệt hàng trăm tên địch, bắt sống 4 cố vấn Mỹ lần đầu tiên ở miền Nam và nổi bật là 2 lần đánh vào Sài Gòn: Lần thứ nhất là trong chiến dịch Mậu Thân 1968 (đợt 2) nổi tiếng với trận 7 ngày đêm kiên gan bám trụ tại mặt trận Cầu Chữ Y, Quận 8 - Sài Gòn, đối đầu với 1 lữ đoàn Mỹ tinh nhuệ và nhiều lực lượng ngụy đã đi vào sử sách và lần thứ hai là trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử xuân 1975 tiến công hướng tây nam giải phóng Sài Gòn.
Từ giữa tháng 4-1975, tình hình chiến trường toàn miền Nam trở lên hết sức sôi động, có lợi hoàn toàn cho quân dân ta. Tiểu đoàn 1 Long An được cấp trên chọn giao nhiệm vụ đánh mở đường cho Đoàn 232 từ hướng tây nam tiến công vào Sài Gòn do Tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh. Tôi lúc đó là liên lạc đại đội, đeo khẩu AK báng gấp và chiếc đài radio do tiểu đoàn cấp cho các đại đội. Nhờ đó, đơn vị hành quân tác chiến đến đâu là tôi đều biết tiến độ phát triển của các cánh quân ta đánh vào Sài Gòn, hừng hực khí thế tiến công, chiến thắng.
…Thế trận các cánh quân của ta đang dần siết chặt Sài Gòn. Trên hướng bắc, hướng đông và hướng tây, do các quân đoàn, binh đoàn chủ lực đảm nhiệm. Hướng Nam, có địa hình phức tạp, sình lầy do các đơn vị chủ lực của Quân khu 8 đảm nhiệm, Tiểu đoàn 1 Long An nằm trong đội hình tấn công này.
Lúc đó, Tiểu đoàn 1 đang đứng chân ở khu vực tràm Ba Làng (xã Thạnh Lợi, huyện Bến Lức) thì nhận lệnh hành quân gấp. Lúc đó, cán bộ, chiến sĩ chưa ai biết sẽ được tham gia đánh vào Sài Gòn, mà chỉ vui mừng vì được gặp lại những người dân đã từng giúp đỡ bộ đội trong thời kỳ bám trụ vùng ven ác liệt. Toàn đơn vị đi qua Tân Đông, vòng xuống Mỹ Tho rồi đánh mở đường từ xã Long Trì (Châu Thành, Long An) qua Quơn Long (Chợ Gạo, Gò Công). Một số đồn bốt nhỏ bị ta vây ép bức rút, bức hàng, tạo ra một khu vực hành lang đứng chân cho các đơn vị chủ lực của Quân khu 8. Tiếp đó, Tiểu đoàn 1 tiến đánh mở rộng sang các xã An Lục Long, Thanh Phú Long, Thanh Vĩnh Đông (Châu Thành, Long An).
Rạng sáng 10-4-1975, Tiểu đoàn 1 tổ chức tấn công liền 3 mục tiêu quan trọng: Diệt đồn Phú Lộc, diệt 1 đại đội bảo an bảo vệ khu nhà của Trần Thiện Khiêm (Thủ tướng chính quyền Sài Gòn) và một số đồn bốt giáp xã Thạnh Phú và Thuận Mỹ. Ngày 14-4, đơn vị tiến sang Tân Trụ bao vây phân chi khu Cây Thẻ. Trận đánh có 2 đại đội tham gia: Đại đội 1 do đồng chí Tân chỉ huy, đại đội 2 do đồng chí Vũ Hùng chỉ huy. Sau một đêm bao vây, ta diệt một số lớn địch, còn lại chúng đầu hàng. Đồng thời, đơn vị bung ra diệt các đồn: Rạch Ế, ngã tư Tân Phước Tây và một số đồn thuộc xã Bình Trinh Đông, Nhật Ninh (Tân Trụ). Từ Tân Trụ, Tiểu đoàn 1 vượt sông Vàm Cỏ Đông sang đất Cần Đước, tấn công địch ở ấp Nhà Dài, các xã Tân Lân, Phước Tuy, diệt hàng chục đồn bốt và 1 đại đội bảo an.
Ngày 25-4, Tiểu đoàn 1 đánh địch ở cầu Mỹ Lệ, thừa thắng tấn công sang Chợ Đào. Trận đánh diễn ra giữa ban ngày, quân địch dùng pháo chụp (đạn nổ trên không) để ngăn chặn, nhưng quân ta bám rất sát không để chúng chạy thoát. Ta đã diệt 1 đại đội bảo an, giải phóng thị tứ Chợ Đào và xã Mỹ Lệ. Tính từ ngày 10 đến 26-4, Tiểu đoàn 1 đã diệt 30 đồn bốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mở đường cho lực lượng cấp trên tấn công vào Sài Gòn.

Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các cánh quân của ta từ các hướng "thần tốc" tiến vào giải phóng Sài Gòn. Ngày 28-4, Tiểu đoàn 1 Long An tấn công khu vực xã An Phú, giáp lộ số 5, cách cầu Nhị Thiên Đường khoảng 8 km về phía Nam, tiếp sau là các Trung đoàn chủ lực của Quân khu 8 khép chặt. Ngày 29-4, Tiểu đoàn 1 và các Trung đoàn chủ lực của Quân khu 8 tiến vào địa phận Quận 8.
Sáng 30-4-1975, Tiểu đoàn 1 vượt cầu Chữ Y, đến chiều ngày 30-4, tiểu đoàn được lệnh tiến xuống quận 4 rồi sang chiếm giữ quân cảng Nhà Bè. Đến đây, Tiểu đoàn 1 Long An hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 7-5-1975, đơn vị được lệnh hành quân trở về Long An nhận nhiệm vụ mới…
Trong toàn bộ chiến dịch, số thương vong của Tiểu đoàn 1 rất ít, do quân địch suy sụp rất nhanh, tuy cũng có lúc chúng ngoan cố chống trả quyết liệt. Có một trường hợp hy sinh rất cảm động đó là đồng chí Đoàn Thế Thơ, quê ở Bắc Giang, làm liên lạc đại đội. Trận đánh ngày 12-4-1975, Thơ chiến đấu rất dũng cảm, diệt nhiều địch giống như các trận trước. Khi kết thúc trận đánh, đại đội trưởng Mười Tâm (quê ở Bến Tre) ra lệnh rút quân. Bất ngờ phía bên kia gò đất gần đó vẫn còn sống sót tên lính ngụy, hắn giương khẩu AR15 bắn trúng đùi trên của Thơ, làm anh quỵ xuống. Đồng đội băng bó cấp cứu kịp thời, nhưng do vết thương nặng, mất nhiều máu nên chiều hôm đó Thơ đã hy sinh, chỉ còn cách ngày toàn thắng 30-4 ít ngày !
Tôi có một kỷ niệm vào ngày 30-4-1975, lúc đơn vị đã xây dựng xong công sự chiến đấu trên hành lang đường phố Trịnh Minh Thế, quận 4, các tiểu đội thay nhau đi vào nhà dân để mua gạo nấu cơm ăn vì đã rất đói. Tổ chúng tôi gồm có 3 người đeo 3 khẩu AK đi dọc mép phố nhưng tất cả các cửa nhà đều đóng kín không động tĩnh gì. Mãi có một căn nhà sáng ánh đèn, chúng tôi đứng trước cửa gọi vọng qua khe cửa: Có ai ở trong nhà không? Im lặng. Tôi lại gọi. Vẫn im lặng. Bỗng thấy loáng thoáng có bóng người trong cầu thang, tôi nói lớn: Chúng tôi là bộ đội giải phóng, chúng tôi muốn mua gạo của dân để nấu cơm ăn. Chị chủ nhà nghe vậy bước dè dặt ra, nhưng vẫn lộ rõ vẻ hoảng sợ. Tôi nói tiếp: Bộ đội giải phóng không bắt cô bác đâu, chỉ nhờ cô bác thôi. Nghe vậy, chị chủ nhà mới dám bước ra kéo cửa mở cho chúng tôi vào nhà. Lần đầu tiên, lúc im tiếng súng, chúng tôi thấy một căn nhà xây khang trang đầy đủ tiện nghi của thành phố Sài Gòn, ánh đèn neon sáng choang, cảm giác thật khó tả. Chị chủ nhà hướng dẫn chúng tôi vào nhà vệ sinh rửa tay chân, rồi chị lặng lẽ đi nấu cơm. Chúng tôi vào rửa chân tay, nhưng vẫn cầm súng và thay nhau cảnh giác. Xong, chúng tôi ngồi xuống nền nhà gạch hoa mát lạnh. Chao ơi, dưới ánh đèn điện lúc này chúng tôi mới nhìn thấy hai bắp đùi toàn là muỗi đốt tấy đỏ chi chít thành “mề đay” do nhiều đêm liền phải hành quân tác chiến liên tục, ngủ bờ ngủ bụi, đầu kê lên mô đất, súng đặt trên ngực, ngủ chớp nhoáng rồi vùng dậy, lại đi. Chúng tôi nhìn nhau, vừa cười vừa thương cảm tình đồng chí, đồng đội. Đúng lúc đó chị chủ nhà bê ra một mâm cơm có canh rau cải nấu với cá rô, trứng rán và tô cơm trắng ngần. Chị nói: Các chú ăn đi chắc đói dữ rồi. Chúng tôi cảm ơn chủ nhà rồi bưng bát lên ăn. Ôi, một bữa cơm thật tuyệt, phần vì đã quá đói, phần vì cơm và thức ăn được nấu rất vừa miệng, nhưng phần quan trọng nhất là vì chúng tôi cảm nhận được tình cảm yêu quý bộ đội của nhân dân Sài Gòn dành cho mình trong ngày đầu tiên giải phóng.
50 năm đã trôi qua, không biết người nữ chủ nhà năm ấy nay có còn không? Và nếu còn thì chị đang ở nơi đâu? Chúng tôi muốn gửi đến chị một lời thăm hỏi ân tình!
Bút ký của Nguyễn Đăng Văn