Tính đến ngày 31-10-2023, quy mô thị trường Trái phiếu doanh nghiệp (do doanh nghiệp phát hành, dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi nợ - viết tắt là thị trường TPDN) Việt Nam đạt 391.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 15,5% GDP.  

Mặc dù đã tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây, từ mức 129.636 tỷ đồng vào năm 2016, nhưng so với các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé - chỉ bằng khoảng 1%  của Trung Quốc, 3% của Hàn Quốc và 5% của Thái Lan. Thị trường TPDN của Trung Quốc là 15.000 tỷ USD, tương đương khoảng 26% GDP; của Hàn Quốc là 2.000 tỷ USD, tương đương khoảng 50% GDP; của Thái Lan là 400 tỷ USD, tương đương khoảng 20% GDP.

Trong khi thị trường TPDN có vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế;   vì đây là kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn. Nhất là trong bối cảnh lãi suất ngân hàng đang ở mức cao, thì thị trường TPDN là kênh huy động vốn giúp giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Thứ hai, thị trường TPDN giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi huy động được các doanh nghiệp sẽ có thêm nguồn lực để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, thị trường TPDN là kênh đầu tư hấp dẫn cho nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có nhu cầu tìm kiếm kênh đầu tư có thu nhập cố định vì thường có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm, đồng thời có tính an toàn so với cổ phiếu. Điều này giúp tăng cường tiết kiệm và đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ tư, thị trường TPDN tạo sự cạnh tranh; thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.

Theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, giá trị phát hành TPDN nước ta trong năm 2022 đạt 340.000 tỷ đồng, giảm 23,7% so với năm 2021. Trong đó, giá trị phát hành TPDN riêng lẻ đạt 306.000 tỷ đồng, chiếm 90,3% tổng giá trị phát hành.

Tại sao thị trường TPDN Việt Nam cuối năm 2022 và đầu năm 2023 đã suy giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước? Nguyên nhân là do lãi suất huy động ngân hàng tăng, khiến TPDN trở nên kém hấp dẫn. Các nhà đầu tư có thể lựa chọn gửi tiền tiết kiệm ngân hàng với lãi suất cao hơn thay vì đầu tư vào TPDN.

Hai là rủi ro vỡ nợ TPDN tăng cao: Trong năm 2022, đã có một số vụ vỡ nợ TPDN, làm các cơ quan quản lý phải thắt chặt thị trường TPDN, nhằm giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư.

Sự suy giảm của thị trường TPDN đã ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp thì gặp khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn trung và dài hạn, từ đó ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Hậu quả tiếp theo là cả nền kinh tế cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.

Ngày 23-11-2023 Thủ tướng Phạm Minh Chính có Công điện 1177/CĐ-TTg thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tháo gỡ ách tắc thị trường TPDN. Công điện đã đưa ra các giải pháp đồng bộ, toàn diện, bao gồm cả giải pháp ngắn hạn và dài hạn, nhằm giải quyết các nguyên nhân gây ra ách tắc thị trường.

Về giải pháp ngắn hạn, Công điện yêu cầu các cơ quan liên quan khẩn trương triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát hành TPDN, bao gồm:

1- Khẩn trương rà soát, đánh giá tình hình phát hành TPDN, nhất là các trái phiếu đến hạn thanh toán trong cuối năm 2023 và năm 2024, chủ động xây dựng kịch bản, đánh giá tác động và có phương án xử lý phù hợp.

2- Tiếp tục triển khai Chương trình hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20-5-2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh, trong đó ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp phát hành TPDN.

3- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc phát hành và giao dịch TPDN, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Về giải pháp dài hạn, Công điện yêu cầu các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường TPDN, đảm bảo tính minh bạch, an toàn và bền vững. Cụ thể, cần bổ sung các quy định về:

1- Tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp phát hành và các tổ chức tư vấn.

2- Nâng cao khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư.

3- Quy định rõ cơ chế xử lý các trường hợp vi phạm.

Công điện cũng yêu cầu các cơ quan liên quan tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của nhà đầu tư về thị trường TPDN.

Nhìn chung, các giải pháp được đưa ra trong Công điện là phù hợp với thực trạng của thị trường TPDN Việt Nam. Nếu được triển khai hiệu quả, các giải pháp này sẽ góp phần tháo gỡ ách tắc thị trường, khôi phục hoạt động phát hành TPDN và thúc đẩy phát triển thị trường  một cách lành mạnh, bền vững.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng