
Đại tá, Nhà văn Nguyễn Tiến Hải
Chúng tôi tìm gặp Đại tá, nhà văn Nguyễn Tiến Hải - nguyên Trưởng phòng biên tập văn học, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân với mong muốn được nghe về những kỷ niệm từ thuở binh nhì của ông trên tuyến đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Biết được ý định đó, ông cười rồi nói vui: “Chuyện Trường Sơn thì nhiều, nhiều lắm. Các bạn nghe được đến đâu thì nghe thôi...”. Xin được ghi lại một đoạn trong những ký ức sâu đậm của ông:
Chuyện xảy ra ở Trường Sơn vào mùa mưa năm 1971.
Một buổi sáng, địch đánh phá rất ác liệt. Căn hầm của các chiến sĩ Thông tin và Công binh bị sạt lở nghiêm trọng. Tôimay mắn sống sót nhưng bị thương rất nặng, máu chảy ra từ hai tai đau buốt và ngực thì tức nghẹn. Nhìn quanh hầm, tôi thấy anhThọ, là Trung đội trưởng Công binh, còn nguy kịch hơn nhiều. Sau trận đánh, anh Thọ được anh em đưa đi cấp cứu ở Đội phẫu thuật. Người ta phải cắt và lấy trong miệng anh đoạn gỗ xuyên qua hai bên má, 8 cái răng bị gãy. Anh Thọ đi cấp cứu ở Đội phẫu thuật, cứ tưởng sau đó sẽ ra Bắc, nhưng không ngờ chỉ 15 ngày lại về trực chiến cùng anh em trên đỉnh đèo 3C. Trường Sơn đã kéo anh Thọ về bên đồng đội, trong khi anh ấy có cơ hội để thoát khỏi đạn bom, đói rét và chết chóc...
Để những chiếc xe tăng vượt Trường Sơn, thì quảlà một kỳ tích. Đường dốc cheo leo, một bên là núi cao, một bên là vực sâu, các chiến sĩ Công binh phải đi lùi, cầm cái đèn bão bịt kín xung quanh, chỉ để lọt một lỗ sáng nhỏ như hạt đỗ, dẫn từng chiếc xe tăng xuống dốc.
Có lần, một chiếc xe tăng đang xuống đèo thì máy bay Mỹ đánh phá rất ác liệt suốt đêm. Chiếc xe bị đất đá phủ kín. Chiến sĩ lái chiếc xe tăng đó là một anh người dân tộc, ở Cao Bằng, xuống ngồi cùng hầm với tôi. Thỉnh thoảng anh ấy lại nhảy lên miệng hầm nhìn chiếc xe. Sớm ra, thấy tháp pháo vẫn còn, anh gọi các chiến sĩ Công binh và nhanh chóng kéo nhau lên đỉnh đèo cứu xe. Nhưng ngay lúcđó,địch đã quay trở lại đánh phá. Chiếc xe tăng cứ dịch dần, dịch dần, xệ xuống tà luy âm rồi lao xuống vực. Chiến sĩ lái xe tăng khóc hu hu như trẻ nhỏ. Anh ấy nghẹn ngào: “Tôi coi nó như con, tôi gắn bó với nó từ ngoài Bắc vào đây nhưng không được cùng nó tiếp tục tiến vào Nam...”.
Vậy đấy, nhờ những con người như vậy mà những chiếc xe tăng đã vượt qua đèo 3C năm ấy, hùng dũng tiến vào góp phần giải phóng miền Nam tháng 4-1975.
Một kỷ niệm nữa mà tôi không thể nào quên, là có đận đến 3 tháng ròng, đơn vị không một hạt gạo do địch đánh phá rất ác liệt, cộng với sự chia cắt của sông suối trong mùa mưa. Cái đói vây riết lấy cán bộ, chiến sĩ. Anh em đói vàng mắt, ngày ngày phải bò ra suối tìm rau. Cái đói làm cho mọi người đều giống nhau, chỉ có xương và hai hõm mắt. Tôi thấy thật xót xa khi thấy có đồng đội mình hy sinh không phải vì bom đạn quân thù mà vì đói…
Rồi, tất cả như bừng tỉnh khi nghe tin có gạo từ hậu phương miền Bắc gửi vào. Ngay sáng hôm sau, theo kế hoạch, 10 chiến sĩ thuộc Đại đội Thông tin của Binh trạm 36 đi lấy gạo về đơn vị. Tôi cũng là một trong số đó. Chỉ có điều, khi đi, tôi mang theo lời dặn dò của anh Thắng - Tiểu đội trưởng: “Hải ơi, khi đi lấy gạo về, bước lên thùng phi để đổ gạo vào thùng phi, em nhớ nắm chặt đáy ba lô nhé, bởi vì số gạo trong hai lòng bàn tay của em đủ để tiểu đội 7 người của mình được một bữa cháo đấy”. Nghĩ đến tình cảnh của mình và chính đồng đội suốt mấy tháng ròng không một hạt gạo cầm hơi, hình dung ra nồi cháo bốc hơi nghi ngút từ hai nắm gạo mình đem về, tôi càng đinh ninh lời dặn của Tiểu đội trưởng.
Gạo được tập kết ở một bản Lào, cách đơn vị một ngày đường đi bộ. Đeo 20kg gạo, trời mưa, đường trơn nhưng ai cũng rảo bước. Về đến đơn vị, nhớ lời anh Thắng, khi bước lên bục gỗ đổ ba lô gạo vào thùng phi, tôinắm chặt đáy ba lô, giữ lại một phần gạo trong lòng bàn tay của mình. Nhưng khivừa bước xuống bục thì anh Bồng - chiến sĩ nuôi quân bước đến vỗ vai: “Đừng làm thế em ạ, tiểu đội em được thêm miếng cơm thì anh em đại đội lại bớt đi một miếng cháo”.
Người tôi như có dòng điện, má tôi đỏ bừng, tôi giũ thật mạnh cái ba lô vào thùng phi, không còn hạt gạo nào dính vào ba lô nữa. Trong lòngvừa xấu hổ và ân hận. Càng xấu hổ hơn khi nghĩ lại những kỷ niệm đã qua ở Trường Sơn, nghĩ tới anh Thọ - Trung đội trưởng công binh, rồi người chiến sĩ lái xe tăng...
Mà đâu chỉ có hối hận, lại còn cả lo lắng nữa. Không có hai nắm gạo đem về, nghĩa là anh em tiểu đội không có nồi cháo loãng. Không có nắm gạo đem về, nghĩa là không làm được điều anh Thắng dặn.
Khi anh về đến nơi đơn vị đóng quân, tiểu đội trưởng Thắng chạy ra, kéo tôivào gốc cây, hỏi: “Hải về đấy em, thế nào, kế hoạch thành công chứ?”. Tôi kể lại sự việc rồi chuẩn bị tinh thần nghe lời khiển trách của anh. Nhưng nghe tôi kể xong, Tiểu đội trưởng Thắng không trách một lời nào mà thần người rồi khóc.
Anh khóc nghẹn ngào, đưa tay áo lên lau nước mắt và nói: “Anh Bồng nói đúng đấy em ạ. Anh sai rồi!”. Hai người lính trẻ lặng đứng ôm nhau khóc giữa rừng già.
Sau này, cuộc sống đã đủ đầy, trong rất nhiều câu chuyện lưu giữ trong tâm khảm về cái thời là lính ở Trường Sơn, Đại tá Nguyễn Tiến Hải vẫn không thể quên chuyện nắm gạo dưới đáy ba lô. Anh vẫn ôn lại với đồng đội và kể lại cho con cháu nghe mỗi khi có dịp. Và để tự răn mình, để lúc xa rừng về phố, cả đời làm người lính, chiếc ba lô vẫn được giữ sạch như khi ở Trường Sơn.
Hạnh Phương - Quang Vũ